29.5.05

Năng lượng tái tạo, tiềm năng chưa được đánh thức


08:29' 29/05/2005 (GMT+7)

(VietNamNet)-Việt Nam có tiềm năng lớn về nguồn năng lượng tái tạo song cho tới nay nguồn này chỉ chiếm 1% tổng công suất điện cả nước ( chừng 12.000MW). Phát triển mạnh năng lượng tái tạo sẽ góp phần đa dạng hoá nguồn điện, đảm bảo an ninh năng lượng trong tương lai, nhận định của PGS.TS Nguyễn Tiến Nguyên, chuyên viên cao cấp Trung tâm Nghiên cứu Năng lượng và Môi trường (Liên hiệp các Hội Khoa học Kỹ thuật Việt Nam).

PGS. TS Nguyễn Tiến Nguyên.

Hiện nay nhiều nước trên thế giới đang hối hả phát triển, ứng dụng nguồn năng lượng tái tạo, chẳng hạn như Trung Quốc, Đức và Nhật Bản. Nguyên nhân chính là năng lượng truyền thống (than, dầu, khí...) sắp cạn kiệt, nguồn cung cấp biến động về giá cả, chịu ảnh hưởng của chính trị và việc sử dụng chúng làm phát thải khí nhà kính, gây hiệu ứng nóng lên toàn cầu. Tuy nhiên, theo TS Nguyên, Việt Nam vẫn chưa có chiến lược tổng thể về vấn đề này và hiện Bộ Công nghiệp mới đang soạn thảo chính sách phát triển năng lượng tái tạo để trình Chính phủ. Dự kiến, Việt Nam sẽ phấn đấu để tỷ lệ năng lượng tái tạo chiếm khoảng 3% tổng công suất điện năng tới năm 2010 và 6% vào năm 2030. Tỷ lệ này thấp hơn so với Thái Lan (8-9% tới năm 2020).

  • Thuỷ điện nhỏ và phong điện

Các đề tài nghiên cứu đang được tiến hành cho thấy Việt Nam có thể phát triển mạnh nguồn năng lượng tái tạo, đó là thuỷ điện nhỏ, gió, mặt trời và sinh khối (biomass). Từ lâu, thuỷ điện nhỏ đã được sử dụng ở Việt Nam nhằm giải quyết nhu cầu năng lượng ở quy mô gia đình và cộng đồng nhỏ, chủ yếu là vùng trung du miền núi. Thuỷ điện nhỏ có sức cạnh tranh so với các nguồn năng lượng khác do điện từ đó có giá thành cạnh tranh, trung bình khoảng 4 cent (600 đồng)/KWh. Ước tính Việt Nam có khoảng 480 trạm thuỷ điện nhỏ với tổng công suất lắp đặt là 300MW, phục vụ hơn 1 triệu người tại 20 tỉnh. Trong số 113 trạm thuỷ điện nhỏ, công suất từ 100KW-10MW, chỉ còn 44 trạm đang hoạt động. Con số 300MW quả là quá nhỏ bé so với tiềm năng của thuỷ điện nhỏ ở Việt Nam là 2.000MW, tương đương với công suất của nhà máy thuỷ điện Hoà Bình.

Một loại năng lượng tái tạo nữa là gió. Theo thống kê của ngành điện, sản lượng điện năng sản xuất từ sức gió hiện nay trên thế giới tăng liên tục, năm 1994 là 3.527,5MW; năm 1997 là 7.500MW và hiện nay là trên 10.000MW... Sử dụng nguồn điện bằng sức gió không lo hết nhiên liệu hay cạn kiệt nguồn nước như thủy điện và nhiệt điện, đặc biệt là không gây những tác động đáng kể đến môi trường. Mặc dù Việt Nam không có nhiều tiềm năng gió như các nước châu Âu song so với Đông Nam Á thì lại có tiềm năng tốt nhất. Đáng tiếc là cho tới nay phong điện ở Việt Nam vẫn chưa phát triển tương xứng với tiềm năng sẵn có.

Một số cột gió phát điện.

TS Nguyên cho biết tiềm năng xây dựng phong điện ở Việt Nam từ nay tới năm 2030 là 400 MW. Muốn phát triển phong điện, cần phải đo tốc độ gió cụ thể tại các vùng miền. Cho tới nay, Việt Nam đã xây dựng xong và đang vận hành một cột gió phát điện công suất 850 KW ở Bạch Long Vĩ. Ngoài ra, Trung tâm năng lượng tái tạo và thiết bị nhiệt (RECTARE), ĐH Bách Khoa TP Hồ Chí Minh đã lắp đặt trên 800 cột gió ở hơn 40 tỉnh thành, tập trung nhiều nhất gần Nha Trang (135 cột đang hoạt động). Nha Trang cũng là nơi có một trong hai làng gió duy nhất ở Việt Nam. Việc xây dựng các cột gió ở làng này do Bộ Khoa học và công nghệ cùng với Hiệp hội Việt Nam-Thuỵ Sĩ tài trợ. Ngôi làng gió thứ hai nằm ở Cần Giờ nơi 50 cột gió đã được lắp đặt thông qua sự hỗ trợ của Pháp. Tuy nhiên, đa số các cột gió nói trên có công suất thấp, chỉ sử dụng cho hộ gia đình và ít thành công do không được bảo dưỡng.

Hiện còn có dự án xây dựng 20 cột gió với tổng công suất 15MW tại khu bờ biển bán đảo Phương Mai, Thành phố Quy Nhơn và một phần huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định. Viện Năng lượng đang chuẩn bị nghiên cứu khả thi xây dựng các trang trại gió quy mô lớn, một trong số đó là trang trại 20 MW ở Khánh Hoà. Tổng công ty điện lực Việt Nam dự định tài trợ để xây dựng một trang trại nữa với công suất 20 MW, cũng ở Khánh Hoà. Giá phong điện hiện ở vào khoảng 7-8cent (800 đồng/kWh).

  • Sinh khối và mặt trời

Ngoài phong điện, tiềm năng sinh khối trong phát triển năng lượng bền vững ở Việt Nam cũng khá lớn. Lợi thế to lớn của sinh khối so với các nguồn năng lượng tái tạo khác như năng lượng gió và mặt trời là có thể dự trữ và sử dụng khi cần, đồng thời luôn ổn định, tình hình cấp điện không bị thất thường. Nguồn sinh khối chủ yếu ở Việt Nam là trấu, bã mía, sắn, ngô, quả có dầu, gỗ, phân động vật, rác sinh học đô thị và phụ phẩm nông nghiệp. Theo nghiên cứu của Bộ Công nghiệp, tiềm năng sinh khối từ mía, bã mía là 200-250MW trong khí chấu có tiềm năng tối đa là 100MW. Hiện cả nước có khoảng 43 nhà máy mía đường trong đó 33 nhà máy sử dụng hệ thống đồng phát nhiệt điện bằng bã mía với tổng công suất lắp đặt 130MW. Tuy nhiên, nếu thừa điện thì các nhà máy này cũng không bán được.

Ngoại trừ mía đường, các nguồn sinh khối khác vẫn chưa được khai thác để sản xuất điện. Một số nhà đầu tư nước ngoài đã chuẩn bị các nghiên cứu khả thi về sử dụng rác sinh học đô thị để sản xuất điện, mặc dù vậy chưa có một nhà máy sinh khối thương mại nào ở Việt Nam. Chính phủ đang đàm phán với các nhà đầu tư Anh, Mỹ để ký một hợp đồng BOT trị giá 106 triệu đôla để xây dựng một nhà máy sinh khối tại TP Hồ Chí Minh. Dự án này sẽ xây dựng một nhà máy xử lý 1.500-3.000 tấn rác mỗi ngày, sản xuất 15MW điện và 480.000 tấn NPK/năm.

Nguồn khí sinh học (biogas) từ bãi rác chôn lấp, phân động vật, phụ phẩm nông nghiệp hiện mới chỉ được ứng dụng trong đun nấu. Lý do đây là nguồn phân tán, khó sản xuất điện. Ước tính cả nước có chừng 35.000 hầm khí biogas phục vụ đun nấu gia đình với sản lượng 500-1.000m3 khí/năm cho mỗi hầm. Tiềm năng lý thuyết của biogas ở Việt Nam là khoảng 10 tỷ m3/năm (1m3 khí tương đương 0,5 kg dầu). Hiện tại đang có một số thử nghiệm dùng biogas để phát điện. Theo nghiên cứu của Trung tâm Nghiên cứu Năng lượng và Môi trường, nếu mỗi ngày chạy 1 máy phát (công suất 1-2kw) trong thời gian 2 tiếng thì cần phải nuôi 20 con lợn. Giá thành của khí sinh học ở vào khoảng 6cent/kwh, tương đương 800 đồng.

Một nhà máy năng lượng sinh học.

Còn về điện mặt trời, Việt Nam đã phát triển nguồn năng lượng này từ những năm 1960 song cho tới nay vẫn chưa được ứng dụng rộng rãi. Theo đánh giá của các chuyên gia thì hiệu quả nhất của năng lượng mặt trời là đun nước nóng. TS Nguyên cho rằng nên phát động phong trào sử dụng loại hình năng lượng này ở thành phố nhằm tiết kiệm điện. Bức xạ nắng mặt trời sau khi đi qua tấm kính có thể đun nóng nước tới 80 độ C và nước được nối qua bình nóng lạnh để tắm rửa hoặc đun nấu. Với một bể 500l nước nóng/ngày, một hộ gia đình cần đầu tư 3 triệu đồng để mua thiết bị và 3 năm sẽ thu hồi được vốn. Pin mặt trời hiện chỉ được dùng ở vùng sâu vùng xa, phục vụ sinh hoạt, thông tin và liên lạc tàu bè.

Việt Nam hiện có trên 100 trạm quan trắc toàn quốc để theo dõi dữ liệu về năng lượng mặt trời. Tính trung bình toàn quốc thì năng lượng bức xạ mặt trời là 4-5kWh/m2 mỗi ngày. Tiềm năng điện mặt trời là tốt nhất ở các vùng từ Thừa Thiên Huế trở vào miền Nam và vùng Tây Bắc. Vùng Đông Bắc trong đó có Đồng bằng sông Hồng có tiềm năng kém nhất. Do giá thành còn cao (60cent hay 8000 đồng cho 1kWh) nên điện mặt trời chưa được dùng rộng rãi. Hiện mới chỉ có 5 hệ thống điện mặt trời lớn, trong đó có hệ thống ở Gia Lai, với tổng công suất 100kWp (công suất cực đại khi có độ nắng cực đại). Chính phủ cũng đã đầu tư để xây dựng 100 hệ thống điện mặt trời gia đinh và 200 hệ thống điện mặt trời cộng đồng cho cư dân ở các vùng đảo Đông Bắc với tổng công suất là 25kWp. 400 hệ thống pin mặt trời gia đình nữa do Mỹ tài trợ đã được xây dựng cho các cộng đồng ở Tiền Giang và Trà Vinh với tổng công suất 14kWp.

  • Minh Sơn

28.5.05

Năng lượng tái tạo ở Việt Nam

Năng lượng tái tạo thay vì điện hạt nhân

Thời Báo Kinh Tế Sài Gòn
Số 41 & 42
7-10-04 & 14-10-04

Nguyễn Khắc Nhẫn

“Điện hạt nhân không kinh tế mà còn nguy hiểm cho đất nước”, như tôi đã có dịp giải thích trên Thời báo kinh tế Saigon số ra ngày 27-5-04. Nay tôi xin trình bày tiếp những lý do tại sao nước ta nên phát triển mạnh Năng lượng tái tạo (NLTT).

Vài khái niệm cần biết

Năng lượng có 4 nguồn gốc chính: mặt trời (quan trọng nhất), hạt nhân, địa nhiệt và thuỷ triều. Sau hàng trăm triệu năm, nhờ mặt trời, năng lượng đã tập trung ở nhiều mỏ : than, dầu và khí. Các nguồn năng lượng hoá thạch này được tích trữ (stock), sẽ dần dần khô cạn, với tốc độ ngày càng nhanh, vì nhiều nước giàu mạnh đã sử dụng một cách phung phí và vô trách nhiệm. Dầu thương mãi còn khoảng 40-50 năm, khí 60-70 năm, than trên một hai thế kỉ. Thời gian ấy có thể dài hơn, nếu có tiền khai thác các loại nhiên liệu hiện nay chưa kinh tế, như cát chứa asphan hay đá dầu, với tiềm năng rất lớn.

Nếu ta vẽ những đường biểu diễn các dạng năng lượng, kế tiếp nhau từ thế kỉ 16 đến nay, mỗi thứ nhiên liệu có một “ thời kì oanh liẹt “, kéo dài hàng chục năm : củi , than, thủy điện, dầu, khí rồi hạt nhân. Nhà nghiên cứu C.Marchetti của Viện IIASA (International Institute for Applied System Analysis, Vienne (Áo), hình như đã có ý muốn tìm xem ĐHN có biến chuyển như chu trình kinh tế dài hạn Kondratiev, lên xuống theo từng đợt 40-50 năm không? Theo tôi ,“thời kì oai hùng “ của ĐHN, từ 1954 (Nautilus) đến 1986 (Tchernobyl), đã qua rồi và khó trở lại được nữa !

NLTT (mặt trời, thuỷ điện, gió, sinh khối ...) cũng do mặt trời, là nguồn thông lượng (flow) Từ thời thượng cổ, tổ tiên chúng ta đã khai thác các dạng năng lượng này một cách thông minh với nhiều sáng kiến đáng kính phục. Dùng danh từ “năng lượng mới” là không đúng, có mới chăng là các phương pháp mà thôi. NLTT hiện nay chưa kinh tế và tùy nguồn, cũng có vấn đề môi trường, nhưng tương đối, ít nguy hiểm như các nguồn năng lượng hóa thạch hay ĐHN. Công suất mặt trời vô cùng to lớn, tương đương với 173 tỷ MW, tức là bằng 20 triệu lần công suất thiết kế của những nhà máy điện nước ta năm 2004. Năng lượng của mặt trời đủ cung cấp ít nhất 7000 lần nhu cầu năng lượng thế giới hiện nay. Trung bình, mỗi mét vuông của mặt đất đuợc mặt trời chiếu sáng như có một bóng đèn 180 W thường trực.

NLTT bị ĐHN và Dầu mỏ lấn ép !

Nhiên liệu, tạo hóa đã “cho không” mà nhân loại “ không lấy”, chẳng biết lợi dụng, triệt để khai thác. Ngành công nghiệp năng lượng của nhiều nước giàu mạnh tiếp tục ru ngủ, khôn khéo dựa vào khoa học kĩ thuật, che giấu dư luận khi cần, để lấn ép NLTT. Từ nửa thế kỉ nay, hầu hết kinh phí dành cho việc nghiên cứu ở các cường quốc là để bành trướng ĐHN, thay vì dồn cho ngành NLTT, động lực quí báu nhất của việc phát triển lâu bền kinh tế và xã hội toàn cầu. Điều đáng mừng là nhiều chuyên gia, tại Hội nghị Năng lượng thế giới vừa bế mạc ở Sydney, đã khuyến khích các nước nên đặc biệt đầu tư trong lĩnh vực nghiên cứu NLTT.

Nhân loại phải lợi dụng giai đoạn chuyển tiếp từ đây đến 2030, trước khi các lò thế hệ IV ra đời, và cũng là thời điểm mà giá khí, dầu, có thể tăng cao tột đỉnh (nay đã lên 54 USD/1 thùng -159 lit-, hơn gấp đôi giá thị trường mong đợi, 20USD/1 thùng ), vì nạn khan hiếm bắt đầu rõ rệt, đồng thanh khuếch trương mạnh các nguồn NLTT. Cao điểm sản xuất dầu mỏ trên thế giới (Peak oil – của nhà địa chất học Mĩ Hubbert ) có thể phát hiện từ 2020 đến 2030, hoặc sớm hơn (2005-2010). Theo nhà địa chất học Mĩ Matthews Simmons, nước Arap Saudi đã đạt cao đỉnh!

Vài con số sau đây cho ta thấy chiến tranh nặng mùi dầu mỏ sẽ có thể tái diễn một cách bất ngờ: t 2001 đến 2025, tỉ lệ nhập cảng dầu mỏ của Mĩ sẽ tăng t 55,7% đến 71%, Châu Âu t 50,1% lên 68,6% và Trung Quốc t 31,5% đến 73,2% ! Mc tăng trưởng dầu mỏ cần thiết cho toàn cầu là 1,9% mỗi năm, từ 80 triệu thùng dầu / 1 ngày hiện nay đến 120 triệu thùng / 1 ngày năm 2020 ! Trong tương lai, trong tầm địa lý chính trị thế giới có thể là vùng biển Caspian, giàu dầu và khí, và tên những nước Azerbaidjan, Kazakhstan (thứ ba về trữ lượng dầu mỏ) và Turkmenistan (thứ năm về trữ lượng khí) khó đọc, dần dần sẽ quen thuộc như I ran, I rac.

Vai trò của NLTT và chiến lược dài hạn

Tất cả những ngồn năng lượng đều cần thiết, nhưng phải nhìn nhận rằng chỉ có NLTT mới đủ điều kiện giúp nhân loại giải quyết lâu bền những vấn đề trọng yếu sau đây :

· Chống hiệu ứng nhà kính (thay đổi khí hậu).

· Phát triển bền vững kinh tế và xã hội (đem lại nhiều công ăn việc làm)

· Dành dụm các nguồn hóa thạch.

· Tránh những tai biến quan trong, những cơn khủng hoảng địa lí về dầu, khí, hạt nhân có thể gây ra chiến tranh.

· Hạ mức sản xuất chất thải phóng xạ và sự lan rộng vũ khí nguyên tử.

· Làm giảm sự mất thăng bằng Nam Bắc.

Vì năng lượng cũng như môi trường, đòi hỏi rất nhiều tiền và thời gian, là một vấn đề mênh mông, ảnh hưởng cả vũ trụ, chứ không riêng gì cho một vài vùng hay khu vực; chiến lược dài hạn của mỗi nước cần có hướng nhìn sâu rộng, sao cho phù hợp với quyền lợi chung và di sản của nhân loại. Có 3 nguyên tắc chính phải được phổ biến rộng rãi và áp dụng chặt chẽ :

· Tiêu thụ chừng mực: ưu tiên dành cho nhu cầu thiết thực. Đặc biệt quan tâm đến những mô hình cầu thay vì cung.

· Gia tăng hiệu suất và tiết kiệm năng lượng: chọn lọc máy móc và phương pháp có hiệu suất cao (dùng đèn huỳnh quang tiêu thụ 5 lần ít hơn đèn thường )

· Bảo vệ môi trường và các thế hệ sau.

Nên tránh s tập trung các nguồn NLTT

Các nguồn NLTT tràn ngập trên vũ trụ và được rải khắp nơi cho mọi người. Đó là một đặc tính thiên nhiên hết sức quan trọng mà ta thường không để ý. Ta nên bỏ thành kiến sai lầm, và nên tránh việc một hai phải mất thì giờ và tiền bạc, tập trung lại những nguồn vốn nằm rải rác, để thiết lập nhưng nhà máy đồ sộ, rồi sản xuất, truyền tải, phân phối, cung cấp điện cho mỗi gia đình, qua nhiều tầng biến thế, với nhiều tổn thất trên hệ thống dây. Đúng ra, tuỳ trường hợp, phải tìm mọi cách sản xuất và tiêu thụ ngay tại chỗ, ở từng thành phố, từng làng xã, từng căn nhà. Ngày nay, nên chủ trương chính sách năng lượng phân cấp với nhưng hệ thống độc lập, nhưng có thể tiếp cứu nhau.

Luôn bị năng lượng hoá thach và hạt nhân lấn ép, NLTT mang tiếng là không kinh tế và không đủ số lượng cho nhu cầu lớn. Sự thật không đúng hẳn như thế. Nhiều nhà máy thuỷ điện, địa nhiệt hay thuỷ triều (La Rance – 240 MW ở Pháp) cũng có công suất lớn, trên vài chục, vài trăm hay vài ngàn MW.

NLTT sẽ kinh tế và không có vấn đề kỹ thuật quan trọng

Về giá thành kWh, bài toán phân tích kinh tế để so sánh các nguồn, thường không chính xác, vì người ta vô tình hay hữu ý, không chịu tinh phần phí tổn gây ra, do ô nhiễm môi trường (CO2 chẳng hạn), ảnh hưởng đến xã hội (vấn đề sức khoẻ).

NLTT sạch hơn cả, cần được khuyến khích, bằng tiền thưởng trong bài toán mới công bằng. Nhiều chuyên gia đã tuyên bố rằng, nếu kể phí tổn gây ra vì môi trường bị ô nhiễm, thì NLTT sẽ xáo trộn bảng sắp hạng kinh tế của các nguồn. Nhiều nước Châu Âu đã áp dụng nguyên tắc này, không ngoài mục đích giúp cho ngành NLTT cất cánh nhanh. Đan Mạch là một trong nhưng nước đánh thuế CO2 đầu tiên. Ở Thuỵ Sĩ, New Zealand, tiểu bang Co lo ra do Mỹ, đa số dân chúng chấp nhận cho tăng hoá đơn điện một vài phần trăm, hoặc tự nguyện ủng hộ vào quỹ đặc biệt, để khuyên khích các dự án NLTT.

Đứng về phương diện kỹ thuật, công nghệ NLTT tương đối thô sơ, không phức tạp lắm và dễ khai thác. Nhiều nước đang phát triển (qua sự chuyển giao công nghệ) đã chế tạo, sản xuất và xuất khẩu máy móc dụng cụ, tránh nhập cảng và lệ thuộc các nước giàu mạnh. Đó là điều mà các cường quốc không vỗ tay ủng hộ!

Tại sao NLTT chậm cất cánh

Bây giờ chúng ta thử xét một cách khách quan vài con số, để hiểu biết hiện trạng và để có một ý niệm rõ ràng hơn về tương lai của ngành NLTT.

Hiện nay NLTT chiếm khoảng 13,6% của tổng nhu cầu năng lương sơ cấp toàn cầu (trong đó 6,6% là do thuỷ điện – bằng điện hạt nhân – 6,4% là nhiên liệu cổ truyền (tương đương với 25% năng lượng của các nước đang phát triển, gồm có : củi, than củi, rác...). Các dạng năng lượng khác như mặt trời, gió, địa nhiệt, sinh khối, chiếm một tỉ lệ không đáng kể 0,6% (đến 1% là tối đa !) Trên thực tế, những con số này không đúng lắm vì một phần NLTT và nhất là nhiên liệu cổ truyền thường không nằm trong thống kê thương mại của thị trường.

Vì nghành công nghiệp than, dầu, khí, ĐHN, quá giàu mà lại còn được sự giúp đỡ về tài chánh của ngân quỹ các quốc gia để nghiên cứu và phát triển, nên NLTT chưa có phương tiện cất cánh mạnh, trừ những năm gần đây.Từ ngày Hội nghị Năng lượng thế giới New-Delhi (1983), lần đầu tiên đề cao vai trò của NLTT, đến nay đã trên 20 năm trời, mà tỉ lệ nhỏ bé trên vẫn còn bị các cường quốc tiếp tục đè bẹp!

Với NLTT, các nước nghèo không tốn nhiên liệu, không lệ thuộc khoa học kĩ thuật tối tân, không gặp các cơn khủng hoảng, thì làm sao các công ty quốc tế lớn có cơ hội thu lợi nhuận ? Một trong những nguyên nhân chính của sự chậm trễ ngành NLTT là vì các công ty này không muốn có sự cạnh tranh!

Ta nên đặt câu hỏi tại sao ở Wall Street, giá cổ phần dầu mỏ, từ một năm nay đã tăng nhanh hơn 4 lần chỉ số Dow Jones (32% thay vì 8%). Thị trường chứng khoán Paris cũng thấy giá cổ phần dầu mỏ tăng gấp đôi chỉ số CAC 40. Từ cuối 1973 đến nay, giá thùng dầu xem như làm chủ thị trường quốc tế, lên xuống tùy tình hình địa chính trị và mức tiêu thụ của các cường quốc. Mỗi cơn khủng hoàng làm lung lay nền kinh tế mỏng manh của những nước nghèo. Cho nên chỉ có NLTT, nếu phát triển mạnh trên tòan cầu , mới có thể chặn đứng tình thế bất ổn định này, và sự thống trị dầu mỏ và hạt nhân dần dần sẽ giảm bớt.

NLTT sẽ có nhiều triển vọng

Năng lượng gió, theo tôi, sẽ có nhiều triển vọng nhất. Đến 2050, tổng sản lượng điện gió toàn cầu có khả năng tương đương với thuỷ điện. Đầu năm 2002, bốn nước Đức, Tây Ba Nha, Mĩ, Đan mạch chiếm gần 90% tỉ lệ điện gió thế giới. Đức hiện nay đứng hàng đầu với 15.000 MW. Đan Mạch là nước xuất cảng mạnh nhất tua bin gió (46% thị trường). Đến 2030, tỉ lệ điện gió và sinh khối của nước này sẽ lên đến 50% ! Ở Châu Ấ, Ấn Độ là nước có nhiều kinh nghiệm quí báu hơn cả trong lĩnh vực này.

Cộng đồng Châu Âu đã quyết định nâng cao tỉ lệ NLTT từ 13,9% (1997) lên 22% năm 2010. Chương trình biểu diễn HIP HIP (House Integrated Photovoltaic High Tech In Public) đã bảo trợ trên một trăm dự án đem lại kết quả khả quan. Theo Hermann Scheer, đại biểu quốc hội Bundestag, chủ tich Eurostar va World Council for Renewable Energy, ở Đức, mỗi năm tăng thêm 3000 MW tái tạo và đén nửa thế kỉ này, tỉ lệ NLTT có thể đạt con số 50%. Nước nóng sạch gia dụng sẽ do 40% năng lượng mặt trời. Phải tìm hiểu kĩ nguyên do, tại sao một cường quốc như nước Đức, với 19 lò đang vận hành (30% ĐHN) mà đã can đảm tuyên bố sẽ hy sinh hàng trăm tỉ USD, rút ra khỏi lĩnh vực hạt nhân ?

Nước Anh có tiềm năng năng lượng gió lớn nhất Châu Âu và Pháp đứng thứ hai với 60 ti kWh/năm (tương đương với thuỷ điện) ở trên đất, 100 ti kWh ở ngoài biển gần. Theo nhà chuyên gia về NLTT Bernard Chabot, ADEME- Sophia Antipolis, giá thành kWh điện gió ở Pháp sẽ mang tính kinh tế vào năm 2030 (4,8 cUSD/kWh trên đất liền với tốc độ gió 6-6,4 m/s, chạy 2200 giờ một năm, và đắt hơn 50% nếu ở ngoài biển).

Tổ chức Lương nông Liên hiệp quốc (FAO) đã có chương trình phổ biến, ở 10 nước tại Châu Phi, kĩ thuật đưa nước vào ruộng bằng năng lượng mặt trời (dùng bơm quang điện). Israel, tiểu bang California và một số nước miền nam Châu Âu cũng đã có kinh nghiệm về phương pháp này.

Từ lâu, Trung Quốc là nước đã phát triển mạnh nhất chương trình thuỷ điện nhỏ. Cách dây 10 năm đã thiết lập gần 50.000 nhà máy này mà 85% là do các làng trực tiếp quản ly. Trên 90 triệu dân có điện cũng nhờ năng lượng này. Năm 1993, Trung Quốc đã chiếm 50% tỉ lệ thuỷ điện nhỏ thế giới (80 tỉ kWh/năm)

Về năng lương địa nhiệt, cần phân biệt hai loại :

· Với nhiệt độ thấp, (50 – 100°C) đặc biệt để sưởi nhà. Năm 1995 công suất toàn cầu là 4000 MW, trong đó phần Pháp là 270 MW, dùng để sưởi 200.000 căn nhà

· Với nhiệt độ cao, (170-200°C) có thể làm nhà máy sản suất điện như ở Larderello (Ý) hay ở California.

Những nước và vùng sau đây cũng đã có nhiều kinh nghiệm về năng lượng địa nhiệt: Ireland, tiểu bang California, New Zealand (30%) đồng phát hơi và điện, Ý, Philippines, Indonesia. Ở các nước Pháp, Thuỵ sĩ, Đúc, chương trình sử dụng địa nhiệt dưới vườn nhà tư nhân để làm nước nóng sạch và sưởi ấm đang được khuyến khích. Có nhiều dự án làm giảm được 75% chi phí năng lượng.

Hiện nay, nhiều nươc khác cũng đang phát triển NLTT, nhưng với một tốc độ còn yếu, không phù hợp với mục tiêu. Những cường quốc đều có chương trình NLTT. Vì có điều kiện khoa hoc, kĩ thuật và tài chính, họ cũng đã đầu tư vào các công trình nghiên cứu về nhiên liêu sinh khối, pin hydro, cô lập carbon (chưa kể năng lượng nhiệt hạch hạt nhân còn xa vời !). Tuy nhiên, tỉ lệ NLTT toàn cầu đến 2050 sẽ rất quan trọng.

Một nguồn năng lượng mới : Tiết kiệm năng lượng

Tiết kiệm năng lượng cần được xem như là một nguồn năng lượng vô cùng quan trọng và quí báu. Một bài tính đơn giản đã cho biết rằng nguồn năng lượng này, nếu có s quyết tâm chống lãng phí của tất cả các nước, có khả năng tương đương với 50% mức tiêu thụ hiện nay của toàn cầu ! Điều ấy cũng dễ hiểu thôi; vì chỉ riêng Mĩ, với 5% dân số, họ đã tiêu thụ 25% năng lượng thế giới! Nhiều chuyên gia nước này cũng nhìn nhận có thể tiết kiệm được 43% năng lượng tiêu thụ, trong đó 50- 94% là do tổn thất gia dụng. Mỗi năm một người Mĩ, trung bình sử dung 8,8 tấn dầu, tức 20 lần mức tiêu thụ của môt người dân Việt Nam.

Nếu mỗi nước có ngay một chương trình NLTT dài hạn và tiết kiệm năng lương, biết triệt để áp dụng những phương pháp tiêu thụ năng lượng một cách có hiệu quả, thì quý cho nhân lọai biết bao. Ví dụ kế hoạch năng lượng Đan Mạch, chủ trương giảm 65% khí thải CO2 vào năm 2030, với tổng kinh phí khoảng 1 tỉ USD, tức 0,5% PIB. Kế hoạch này dựa vào những cố gắng trong chính sách tiết kiệm năng lượng ở mọi ngành : đốt sưởi -40%, máy điện gia dụng -70%, vận tải -65%, thay đổi thái độ cá nhân từ -10% đến -20%. Mặc dù PIB của nước này tăng được 48%, từ 1970 đến 1989, năng lượng tiêu thụ tòan quốc mỗi ngày một giảm.

Trường hợp Việt Nam

Đừng quên rằng hệ số đàn hồi của nước ta (ΔE/E) / (ΔPIB/PIB) vẫn còn quá cao, trên 1,5 ; cần hạ gấp xuống dưới 1, càng thấp càng quý cho công nghiệp và kinh tế.

Việt Nam tương đối dồi dào về năng lượng thiên nhiên hoá thach cũng như tái tạo. Chúng ta cần nghiên cứu kĩ lại tiềm năng NLTT trên tòan lãnh thổ.

Thay vì đi vào con đường ĐHN không kinh tế và hết sức nguy hiểm cho đất nước và những thế hệ sau, tốn rất nhiều tiền và thì giờ một cách vô ích, không thấy lợi đâu cả mà chỉ thấy hại trước mắt, chúng ta cần có một cuộc cải tổ sâu rộng trong lĩnh vực năng lượng ! Với một ý chí chính trị rõ ràng, các cơ quan có trách nhiệm nên quyết tâm huy động mọi tầng lớp dân chúng, mọi cơ sở, mọi xí nghiệp, để phát triển mạnh một chương trình dài hạn NLTT và tiết kiệm năng lương. Muốn đạt kết quả tốt, cũng cần đặc biết chú ý đến triết lý và chính sách Giáo dục và Đào tạo, như nhà văn Nguyên Ngọc và giáo sư Bùi Trọng Liễu, Đại học Paris, đã có dịp trình bày nhiêu lần trên báo chí: ở nhiều nước, ngay ở truờng tiểu học, học sinh cũng đã có những khái niệm về năng lượng và môi trường. Thay đổi thái độ phải bắt đầu từ lúc tuổi thơ.

Tiềm năng tiết kiệm của ta cũng rất lớn, so với nhu cầu thiết thực. Đến 2020, nó có thể đạt con số 2000 MW, có nghĩa là ta khỏi cần xây cất hai lò ĐHN như đã dự trù. Tôi xin nhấn mạnh một lần nữa là Việt Nam sẽ cần 200 tỉ kWh sau 2030 chứ không thể nào sớm hơn (xem bài của giáo sư Phạm Duy Hiển, đăng trên Thời báo Kinh tế Sài Gòn ra ngày 8-7-04: Năm 2020 Việt Nam chỉ cần 100 tỉ kWh !)

Chúng ta đừng coi thường hiện tượng lũy thừa, kinh tế Trung Quốc mất cân bằng (quá nóng) cũng vì thế. Với nghị lực, trí thông minh và sáng kiến của dân tộc, ta sẽ đi nhanh. Nước nhà có thể độc lập trong ngành năng lượng, không lệ thuộc cường quốc nào cả (công nghệ lò hay Uranium giàu). Trong lĩnh vực NLTT, chúng ta sẽ có đủ khả năng sản xuất và xuất khẩu sớm máy móc, dụng cụ cho thị trường, trước khi có sự canh tranh mạnh. Chính trong lĩnh vực còn chỗ đứng này của ngành NLTT, những công trình nghiên cứu của ta sẽ có tiếng vang mà không làm khô cạn ngân sách quốc gia, trái với Câu lạc bộ ĐHN eo hẹp của 33 nước, không còn chỗ ngồi tương ứng với khả năng khoa học và kĩ thuật nước ta hiện nay.

Theo tôi, nếu có một nước trên thế giới cần tránh làm ĐHN, nước ấy là Việt Nam. Vì hậu quả chiến tranh liên tiếp còn để lại biết bao đau thương, bao chất độc, như dioxine, còn rải rác trên lãnh thổ, tai hại cho đồng bào trong 50-60 năm nữa là ít ! Nga va Ucraina có 3 triệu nạn nhân vì Tchernobyl, chúng ta cũng có khoảng 3 triệu nạn nhân vì chất độc da cam ! Tại sao phải đón nhận thêm món quà chất thải phóng xạ cho ruộng đất mà chúng ta “mượn tạm của con cháu, chứ không phải thừa hưởng của tổ tiên”?

Thay đổi khí hậu

Công nghiệp hạt nhân, với nhiều nhóm quốc tế có thể lực, lợi dụng hiện tượng thay đổi khí hậu, đã đề cao quá trớn vai trò ĐHN trong việc chống hiệu ứng nhà kính. Gần đây, James Lovelock, một nhân vật có uy tín trong các nhóm bảo vệ môi trường, cũng hoà tiếng nói của mình với luận điệu này, làm các đảng xanh hết sức phẫn uất.

Tất cả nhưng nhà máy điện trên thế giới chạy bằng than, dầu, khí, chỉ chịu tránh nhiệm khoảng một phần tư số lượng CO2 thải lên trời (24 tỉ tấn năm 2002). Hai lĩnh vực công nghiệp và vận tải ô nhiễm môi trường nhiều hơn.. Đổi chất thải hạt nhân với CO2, thì chẳng khác nào như đổi dịch tả với dịch hạch, hay để thích hợp với thời đại hơn, đổi Sida với SARS (Severe Acute Respiratory Syndrome). Nếu tất cả các nước giàu nghèo trên thế giới đều phải xây cất nhà máy ĐHN để chống hiệu ứng nhà kính thì cũng không giải quyết được vấn đề ô nhiễm môi truờng mà trái lại, sẽ làm tăng trưởng chất độc Pu (vì phải dùng lò nơ-tron nhanh). Trữ lượng các mỏ Uranium cũng có giới hạn, 15 triệu tấn, vừa đủ để cung cấp cho 5 lần số lò đang vận hành trên thế giới trong 40 năm thôi.

Quả đất chúng ta bị xâm phạm và hư hỏng khá trầm trọng, nhưng trong lịch sử, đã trải qua được nhiều thử thách. Đừng quên rằng, cách đây 100 triệu năm, nhiệt độ trung bình đã có 10°C cao hơn nhiệt độ ngày nay. Và sự tập trung CO2 lúc bấy giờ 10 lần lớn hơn. Mỗi khi có những cơn khủng hoảng quan trọng như thế, nhiều chủng loại bị tuyệt diệt. Loài người mỏng manh, cũng có thể bị đe doạ. Trong vòng hai thế kỉ tới, ai có thể tiên đoán rằng loài người sẽ tồn tại, trừ những loại côn trùng và vi khuẩn? Theo Hubert Reeves, nhà thiên vật lý có tiếng, chúng ta có hạn chế mạnh được việc thải CO2 lên trời đi nữa thì tình trạng khí hậu vẫn tiếp tục căng thẳng vì nguyên lí quan tính. GS Edouard Bard ở College de France, chuyên gia về khí hậu, tuy nhìn nhận tính cách nguy hiểm của sự thay đổi khí hậu, cũng tỏ ý dè dặt về những dự báo dài hạn vì còn một số nghi ngờ về phương diện khoa học và kĩ thuật. GS đề nghị nên hết sức thân trọng vì khí hậu có thể đảo ngược chỉ trong vài thế kỉ. Theo Viện Worldwatch, để cứu vãn tình thế, giải pháp duy nhất là phải xây dựng một nền kinh tế dựa trên mặt trời và hydrogène.

NLTT là lời giải thích đáng nhất

Tuy không đồng ý với những lập luận nêu trong cuốn sách nối tiếng “L’écologiste sceptique”, của Bjorn Lomborg, GS Đại học Aarhus và Giám đốc Viện đo lường môi trường Đan Mạch, tôi lại hoan nghênh một số để nghị thiết thực của tác giả . Nhiều chuyên gia, như Stephen Schneider (khí hậu), John P.Holgren (năng lượng), John Bongaarts (dân số), Thomas Lovejoy (sinh vật lý), đã lên tiếng phản đối mạnh Lomborg, cho ràng tác giả không đặt đúng các câu hỏi, không đếm xỉa đến sự bùng nổ dân số thế giới (9 ti người năm 2050 !), không phân tích một cách khoa học. Như tôi hy vong, tác giả cũng nhìn nhận rằng NLTT và đăc biệt năng lượng mặt trời, sẽ kinh tế và rẻ hơn năng lương hoá thạch giữa thế kỉ tới. Bjorn Lombord đã chỉ trích một số công trình của Club de Rome (Halte à la Croissance – hiện tượng lũy thừa!), Greenpeace, Worldwatch, Fonds mondial pour la Nature (WWF) và đặc biệt là Cơ quan cố vấn Liên Hiệp Quốc về khí hậu IPCC (The Intergovernmental Panel on Climat).

Theo tác giả, áp dụng nghị định thư Kyoto 1977 (Kyoto Protocol to the United Nations Framework Convention on Climate Change), sẽ tốn mỗi năm, ít nhất 150 tỉ USD (mà ảnh hưởng về khí hậu chỉ có 0,15°C năm 2100) và tổng kinh phí cần thiết để giải quyết sự thay đổi khí hậu là 5000 tỉ USD. Bjorn Lomborg, dựa vào một bài toán phân tích kinh tế về những phí tổn và lợi hại của việc làm giảm ngay số lượng CO2, đã can đảm đề nghị nên chú trong đến việc giúp đỡ các nước nghèo và nghiên cứu năng lượng tái tạo còn hơn là mất thì giờ và tiền bạc lo cho việc thay đổi khí hậu. Lẽ cố nhiên, tôi ủng hộ lập trường này. Điều đáng lo ngại là có nước giàu mạnh, thiếu tinh thần trách nhiệm, không chịu kí nghị định thư Kyoto, lợi dụng cuốn sách của Lomborg để tự bào chữa, nhưng lại dành tiền đầu tư vào năng lượng phá hoại của bom đạn thay vì NLTT cho hòa binh.

Grenoble, 26-9-2004

TS Nguyễn Khắc Nhẫn

Nguyên Cố vấn Nha kinh tế, d báo, chiến lược EDF Paris,

GS Viện Kinh tế, chính sách năng lượng Grenoble,

GS Trường Đại học Bách khoa Grenoble.


2005.01.07

Tiến sĩ Mai Thanh Truyết

Vào ngày 7/12/04, Viện Năng Lượng và Ngân hàng Phát triển Á Châu vừa tổ chức một hội thảo quốc tế tại Hà Nội về phát triển năng lượng tái tạo và làm giảm thải hồi khí nhà kính. Trong những chương trình phát thanh trước đây, Tiến sĩ Mai Thanh Truyết đã nói nhiều về các loại năng lượng trong tương lai như năng lượng mặt trời, năng lượng gió. Nhân dịp nầy ông sẽ phát thảo qua về năng lượng tái tạo.

Mai Thanh Truyết: Trên thế giới hiện tại, con người tùy thuộc vào các nguồn tài nguyên thiên nhiên như than đá , dầu hỏa và các khí đốt để tạo ra năng lượng. Các loại năng lượng vừa kễ trên ảnh hưởng rất nhiều lên hiệu ứng nhà kính và hiện tượng hâm nóng toàn cầu.

Do đó, gần 30 năm qua, con người cố gắng truy tìm những nguồn năng lượng khác trong đó nguyên liêu được xử dụng là những nguồn năng lượng thiên nhiên như gió, ánh sáng mặt trời, thủy triều và sóng biển v.v....

Ngoài ra phế thải từ các sản xuất kỹ nghệ, phế thải gia cư, thậm chí đến phế thải của người và thú vật cũng có thể biến cải thành năng lượng được. Và các loại năng lượng vừa kể trên có tên chung là năng lượng tái tạo.

Ngoài ra nguồn năng lượng sinh khối (biomass) cũng là một nguồn năng lượng tái tạo quan trọng xử dụng từ các chất hữu cơ trong cây cỏ, bãi rác, phó sản hữu cơ trong công nghiệp, thậm chí đến khí thải methane từ các bãi rác.

Hỏi: Như vậy đây là nguồn năng lượng khá phức tạp và cũng khá quan trọng, Tiến sĩ có thể mô tả thêm về mức độ quan trọng ấy như thế nào?

Đáp: Trước hết đây quả thật là một nguồn năng lượng cho tương lai, sẽ thay thế các nguồn tài nguyên thiên nhiên trong việc sản xuất năng lượng nhất là điện năng. Có ba lợi điểm tăng cường thêm tầm quan trọng của nguồn năng lượng nầy là:

1- Về Môi trường: Công nghệ cho các loại năng lượng tái tạo là công nghệ sạch và nguyên liệu xử dụng hoặc đã có sẳn trong thiên nhiên và không tạo ra ô nhiễm như mặt trời, gió, sóng biển v.v...; hoặc là những phó phẩm hay phế thải từ các công nghệ khác thay vì cần phải xử lý, nay được xử dụng lại, do đó, công nghệ tái tạo nầy đương nhiên tiếp tay vào việc giải quyết ô nhiễm môi trường;

2- Về tương lai: Đây là một loại năng lượng dành cho các thế hệ cháu, chắt của chúng ta vì nguồn nguyên liệu không bao giờ bị cạn kiệt;

3- Về an ninh quốc gia: Vì không còn tùy thuộc vào các nguồn nguyên liệu cổ điển, đối với một quốc gia, một khi đã đẩy mạnh công nghệ năng lượng tái tạo, thì mức an ninh quốc phòng được bảo đảm thêm vì không còn tùy thuộc vào lượng năng lượng cần phải nhập cảng từ các quốc gia khác.. Và trong tương lai, sẽ không có những cuộc khủng hoảng năng lượng trên thế giới như đã xảy ra vào thập niên 70.

Hỏi: Còn sự hữu hiệu của loại năng lượng tái tạo nầy như thế nào thưa Tiến sĩ?

Đáp: Song hành với việc truy tìm những nguồn năng lượng sạch và năng lượng tái tạo, nhân loại cần phải nâng cao hiệu năng trong vịêc xử dụng các loại năng lượng nầy. Chính việc nầy cũng là một việc làm cần thiết trước nguy cơ của sự hâm nóng toàn cầu. Và đây cũng là một yếu tố quan trọng trong sự phát triển quốc gia.

Từ năm 1970 đến 2000, mức xử dụng năng lượng ở Hoa Kỳ đã tăng 45%, trong lúc đó tổng sản lượng quốc gia tăng 160%. Hay nói một cách khác, lượng năng lượng dùng cho một Mỹ kim giảm 44% từ năm 70 đến 90. Hay cũng có thể nói, nền kinh tế quốc gia đã dùng ít năng lượng hơn để phát triển và giảm thiểu ô nhiễm.

Hỏi: Xin Tiến sĩ đan cử ra một số loại năng lượng điển hình cho thính giả biết?

Đáp: Có nhiều loại năng lượng tái tạo điển hình như: năng lượng sinh khối (biomass) hay còn gọi là năng lượng vi sinh, năng lượng địa nhiệt (geothermal energy), năng lượng hydro, và năng lượng đại dương v.v..

Hỏi: Trước hết xin Tiến sĩ nói qua về loại năng lượng sinh khối.

Đáp: Đây là một loại năng lượng tái tạo đặc biệt vì loại năng lượng nầy có thể sản xuất trực tiếp ra khí đốt, xăng dầu cho các hệ thống giao thông như xe cộ, xe lưả, thậm chí nguyên liệu cho máy bay. Có hai loại năng lượng sinh khối là rượu ethanol và dầu diesel sinh học (biodiesel).

Ethanol hay rượu cồn là do sự lên men của các loại chứa carbohydrat cao như tinh bột, đường và các sợi cellulose thực vật. Ethanol là hóa chất cần thiết để pha trộn vào xăng chạy xe để làm giảm thiểu lượng carbon monoxide (CO) thải hồi vào không khí. Hiện tại lượng rượu có thể trộn lẫn vào xăng lên đến 85% thể tích. Còn diesel sinh học là do sự pha trộn giữa rượu và dầu thực vật hay động vật. Hổn hợp nầy có thể làm giảm 20% khí CO so với việc xử dụng diesel cổ điển.

Quá trình chuyển đổi từ năng lượng sinh khối qua địên năng gồm 5 quy trình khác nhau như: đốt trực tiếp, biến thành khí đốt, qua sự tiêu hóa yếm khí (anaerobic digestion), sự khử nước, sự đốt cùng với một nguyên liệu khác (co-firing). Tuy nhiên hầu hết các nhà máy điện từ biomass trên thế giới đều áp dụng phương pháp đốt trực tiếp. Còn năng lương sinh khối từ các phế thải động vật sản xuất ra hơi nóng sau khi đốt và hơi nóng sẽ chạy qua một turbine và máy phát điện để biến cải thành điện năng.

Hỏi: Còn năng lượng từ sức nóng của địa cầu hay địa nhiệt thì sao thưa Tiến sĩ?

Đáp: Nhiều công nghệ đã khai triển loại năng lượng nầy để biến thành điện năng, hoặc dùng để sưởi nóng các quy trình công nghệ cần nhiệt độ cao. Đây cũng là một loại năng lượng tái tạo từ thiên nhiên. Hoa Kỳ đang thử nghiệm loại năng lượng nầy ở Nevada, và đã có nhiều kết quả rất khích lệ.

Hỏi: Năng lượng từ khí hydro thì sao?

Đáp: Hydro là một nguyên tố chiếm tỷ lệ cao nhất so với tất cả các nguyên tố khác trên địa cầu. Nhưng hydro không hiện diện dưới dạng nguyên tử hay phân tử mà dưới dạng hợp chất với các nguyên tố khác như nước gồm có hai hydro và một oxy. Do đó một khi hydro được tách rời sẽ biến thành một nguồn cung cấp nhiệt năng rất lớn và là một loại năng lượng sạch. Hydro có thể tách rời qua sự điện giải nước (H2Ò).

Trong thiên nhiên, một số rong rêu và vi khuẩn, qua sự tiếp hợp của ánh sáng mặt trời có thể phóng thích ra hydro. Đây là một loại năng lượng không làm ô nhiễm không khí. Cơ quan quốc gia Nghiên cứu không gian Hoa kỳ từ năm 1970 đã xử dụng hydro làm nguyên liệu chính cho các hỏa tiển chuyên chở các tàu vũ trụ vào không gian.

Hỏi: Sau cùng xin Tiến sĩ nói về năng lượng đại dương.

Đáp: Đại dương cũng là một loại năng lượng tái lập và có thể sản xuất ra hai loại năng lượng: nhiệt năng từ sức nóng của mặt trời, và cơ năng từ thủy triều và sóng biển. Đại dương bao bọc hơn 70% diện tích địa cầu, do đó đây là một nguồn tiếp nhận ánh sáng mặt trời quan trọng nhất. Sức nóng của mặt trời làm ấm nước mặt của đại dương, và độ ấm nầy cao gấp nhiều lần hơn độ ấm của dòng nước biển dưới sâu.

Sự khác biệt nhiệt độ giữa hai luồng nước biển nầy sẽ tạo ra nhiệt năng. Từ đó nhiệt năng có được sẽ biến cải thành điện năng theo ba công nghệ khác nhau: công nghệ chu kỳ kín, công nghệ chu kỳ hở, và công nghệ hổn hợp. Nguyên lý của chu kỳ kín là làm bốc hơi nước biển ở nhiệt độ thấp qua sự hiện diện của ammoniac. Còn chu kỳ hở là làm nước biển bốc hơi dưới áp suất thấp. Chu kỳ hổn hợp là sự phối hợp của hai phương pháp trên. Hơi nước biển sẽ đi qua một turbine và biến thành điện năng.

Về loại năng lượng thủy triều và sóng biển, Hoa Kỳ đã chọn một địa điểm ở Rhode Island là Port Judith làm thí điểm thử nghiệm với chi phí là 1 triệu Mỹ kim. Thí điểm nầy dự trù cung cấp 700 KW khi bắt đầu hoạt động vào năm 2006.

Hỏi: Trở lại Hội thảo quốc tế, Tiến sĩ có biếtthêm nội dung của Hội thảo nầy ra sao không?

Đáp: Dạ có thưa anh, Hội thảo nhằm phát triển năng lượng tái tạo ở các quốc gia vùng sông Cửu Long và khu vực Đông Nam Á. Dự án do Ngân hàng Phát triển Á Châu tài trợ 10 triệu Mỹ kim để hổ trợ nghiên cứu và giải quyết những vấn đề phát triển các loại năng lượng kễ trên. Hội thảo đả khai triển 5 tài liệu thiết kế về cơ chế phát triển sạch, lập hướng dẫn thiết kế khả thi cho năng lượng sinh khối và cuối cùng xây dựng dự thảo Nghi định Năng lượng tái tạo.

Hỏi: Cuối cùng rồi cũng về chuyện Việt Nam, Tiến sĩ có thấy Việt Nam có hy vọng gì trong vấn đề khai triển các loại năng lượng tái tạo nầy?

Đáp: Đứng trước những dự kiến về một cuộc khủng hoảng năng lượng trong tương lai, các quốc gia trên thế giới đang chạy đua với thời gian để truy tìm những loại năng lượng tái tạo mới, hầu thỏa mản tiến trình toàn cầu hóa qua Nghị định thư Kyoto về ô nhiễm không khí và hiệu ứng nhà kính.

Anh Quốc đã dự kiến đầu tư 100 triệu Mỹ kim cho ngiên cứu năng lượng đại dương và hy vọng loại năng lượng nầy có thể cung ứng 10% tổng số năng lượng xử dụng cho toàn quốc trong năm 2010, và lên đến 15% cho năm 2015.

Có thể đây là một dự phóng tương lai rất tiến bộ về năng lượng của Anh Quốc chăng? Câu trả lời có thể được giải đáp trong vài năm nữa khi các dữ kiện khoa học được thu thập đầy đủ. Và nếu dự phóng nầy thành công thì nhân loại đã thực hiện được một cuộc cách mạng lớn về năng lượng cho toàn cầu.

Trở lại Việt Nam, chúng tôi nghĩ rằng, qua sự giúp đở của Ngân hàng Phát triển Á châu và các chuyên gia ngoại quốc, Việt Nam cần phải giải quyết các vấn đề về định chế tài chính, chính sách phát triển, mô hình quản lý môi trường cho thật minh bạch và rõ ràng ngõ hầu có khả năng tiếp thu trực tiếp các công nghệ về năng lượng tái tạo đã được nghiên cứu hoàn chỉnh ở ngoại quốc như năng lượng mặt trời, năng lượng gió và năng lượng sinh khối.

Kính chào Quý thính giả của Đài ACTD.

Việt Nam sẽ trông vào năng lượng tái tạo?

VNECONOMY cập nhật: 10/11/2004



Theo dự thảo "Chính sách năng lượng quốc gia" do Bộ Công nghiệp vừa hoàn thành để trình Chính phủ phê duyệt, tỷ trọng năng lượng tiêu thụ của ngành công nghiệp sẽ tăng 24% vào năm 2020 và 42% vào năm 2050, trong đó điện sẽ tăng từ 21% năm 2003 lên 34% vào năm 2020, than giảm từ 51% xuống còn 26% và khí đốt sẽ chiếm khoảng 10% trong giai đoạn 2010- 2020.

Từ các số liệu trên, dễ dàng nhận thấy rằng năng lượng của ta hiện đang dựa vào ba nguồn cung cấp chính là điện, than và dầu khí. Còn trong lĩnh vực sản xuất điện, hiện cũng đang hình thành thế chân vạc với ba nguồn chính là thủy điện (chiếm 41%), nhiệt điện dùng khí (gần 40%) và nhiệt điện dùng than (chiếm khoảng 17-18%).

Các nguồn năng lượng khác, trong đó có cả năng lượng tái tạo, chiếm một tỷ trọng không đáng kể, hay nói theo cách khác thì chỉ là một "chấm nhỏ" trong bức tranh toàn cảnh năng lượng Việt Nam.


Nguy cơ tiềm ẩn của an ninh năng lượng

Theo Bộ trưởng Công nghiệp Hoàng Trung Hải, phải mất khoảng 30 năm nữa Việt Nam mới có thể hình thành một thị trường điện thực sự và còn rất nhiều thách thức trước mắt phải vượt qua. Một trong những thách thức đó chính là tính ổn định và bền vững của các nguồn năng lượng.


Sự nóng lên của trái đất, tình trạng ô nhiễm, việc chặt phá rừng... được coi là những nguyên nhân gây nên sự thay đổi bất thường về khí hậu trong thời gian gần đây. Điều này chắc chắn sẽ tác động không nhỏ đến lưu lượng nước ở các sông, đồng nghĩa với việc nguồn thủy năng sẽ có thể không ổn định và đúng như trong dự báo.


Trong một vài năm gần đây, nhiều nhà máy thủy điện lớn đã phải hoạt động cầm chừng trong mùa khô, do lượng nước trong hồ đã hạ xuống gần hoặc dưới mức chết, là một minh chứng cho hiện tượng này.

Trong thời gian tới, tình hình còn có thể nghiêm trọng hơn do để giải quyết vấn đề môi trường cần có thời gian, tiền bạc, công nghệ và nhất là một giải pháp đồng bộ với sự hợp tác, nỗ lực không chỉ một quốc gia.


Chính vì thế, cho dù "trong khoảng 20 năm tới sẽ xây dựng hầu hết các nhà máy thủy điện tại những nơi có khả năng xây dựng" như đã đề cập trong "Chiến lược phát triển ngành điện Việt Nam giai đoạn 2004-2010, định hướng đến 2020" vừa được Chính phủ phê duyệt, thì mục tiêu đạt tổng công suất các nhà máy thủy điện khoảng 13.000 - 15.000 MW có thể vẫn nằm ngoài tầm với".


Than và khí hiện đang chiếm hơn một nửa nguồn cung cấp điện. Tuy nhiên, đây cũng không phải là nguồn tài nguyên ổn định và vô tận. Nguồn khí từ Nam Côn Sơn, hiện đang là nguồn cung cấp chính cho tổ hợp nhà máy điện Phú Mỹ và cụm khí - điện - đạm Cà Mau trong tương lai, cũng chỉ khai thác được trong gần 20 năm nữa. Các mỏ khí khác mới được phát hiện ở Bạch Hổ và khu vực Tây Nam hiện mới đang ở trong giai đoạn chuẩn bị đưa vào khai thác.

Chính vì lý do đó mà con số dự báo đưa ra trong Chiến lược phát triển ngành điện "sẽ xây dựng thêm từ 3.500MW đến 7.000MW trong giai đoạn 2011 - 2020 phụ thuộc vào nguồn khí phát hiện được".

Theo các số liệu thăm dò, trữ lượng than của Việt Nam hiện có khoảng trên 2 tỷ tấn than Anthracite, có thể đủ để khai thác hàng trăm năm nữa. Tuy nhiên, chi phí đầu vào hiện ngày càng tăng cao do phải khai thác xuống sâu, chưa kể đến cái giá phải trả cho việc tàn phá môi trường. Dù chúng ta có nỗ lực đến đâu thì cũng chỉ có thể giảm thiểu ảnh hưởng của nó chứ không thể giải quyết trọn vẹn được bài toán bảo vệ môi trường.

Ngành điện cũng đã có kế hoạch xây dựng nhà máy điện nguyên tử, hiện đang gây nhiều tranh cãi, và nhập khẩu điện. Tuy nhiên, các biện pháp này cũng chưa thể giải quyết dứt điểm được vấn đề thiếu điện trong tương lai.




Năng lượng tái tạo - thực trạng và tiềm năng

Trong Chiến lược phát triển ngành điện, vấn đề phát triển năng lượng tái tạo cũng chỉ được nhắc đến với m y dòng ngắn gọn là "Đẩy mạnh nghiên cứu phát triển các dạng năng lượng mới và tái tạo để đáp ứng nhu cầu sử dụng điện, đặc biệt đối với các hải đảo, vùng sâu, vùng xa".


Vậy phải chăng năng lượng tái tạo tại Việt Nam không có tiềm năng? Xin được liệt kê sơ bộ một số nguồn năng lượng tái tạo hiện có tại Việt Nam như sau:

Thủy điện nhỏ là dạng trạm thủy điện có công suất từ 200 W đến 10.000 KW. Với một hệ thống sông suối nhỏ dày đặc, Việt Nam thực sự rất có tiềm năng về dạng năng lượng này.

Hiện nay đã có khoảng 120.000 trạm thủy điện nhỏ, chủ yếu do tư nhân đầu tư, với tổng công suất ước tính khoảng 20MW, cung cấp 65 - 120 triệu kWh điện hàng năm cho hơn 130.000 hộ gia đình ở các khu vực miền núi và vùng cao tại Việt Nam.


Việt Nam hiện có khoảng 200 nguồn nước nóng tập trung chủ yếu ở khu vực cao nguyên miền Trung, bờ biển miền Trung và vùng núi từ Quảng Bình tới Khánh Hòa. Với nhiệt độ từ 40 đến 150 độ C, các nguồn nước nóng này được coi là có đủ điều kiện để xây dựng các trạm phát điện từ nguồn địa nhiệt.


Xay xát lúa gạo và ngành mía đường cũng có nhiều tiềm năng để sản xuất điện. Theo ước tính, hiện nay cả nước có hơn 100.000 nhà máy xay xát lúa gạo tập trung chủ yếu ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long, nơi có khoảng 50 nhà máy xay xát với công suất hơn 5 tấn/giờ. Mỗi nhà máy này có thể cung cấp vỏ trấu cho một trạm phát điện công suất từ 500KW trở lên và tổng công suất của các nhà máy nhiệt chạy bằng vỏ trấu có thể đạt tới 70MW.

Cũng theo những số liệu khảo sát ban đầu, số lượng bã mía do các nhà máy đường thải ra hiện nay có thể đủ để cung cấp cho các trạm phát điện với tổng công suất khoảng 250MW.


Khí sinh học (biogas) cũng có tiềm năng rất lớn ở khu vực châu thổ sông Hồng và sông Cửu Long. Hiện nay đã có một số hộ gia đình ở khu vực này sử dụng biogas để nấu nướng, thắp sáng và chạy các động cơ công suất nhỏ.


Việt Nam có nguồn năng lượng mặt trời khá dồi dào, đặc biệt ở khu vực phía Nam. Mức độ bức xạ nhiệt ở khu vực này dao động từ khoảng 3-4,5 kWh/m2/ngày vào mùa đông, tới 4,5-6,5 kWh/m2/ngày vào mùa hè. Năng lượng mặt trời được coi là có tiềm năng lớn trong việc cung cấp điện cho những khu vực vùng sâu, vùng xa, nơi chưa có lưới điện quốc gia.

Theo con số thống kê chưa đầy đủ hiện có khoảng 3.000 hệ thống pin mặt trời, với công suất từ 500Wp đến 1.500Wp (Wp - số Wát tối đa mà một đơn vị pin mặt trời h p thụ được vào thời điểm buổi trưa của ngày nắng) đã được lắp đặt tại các bệnh viện, trường học, các trạm phát điện phục vụ cho đường dây cáp quang và các hộ gia đình. Phần lớn các trạm phát điện này nằm trong các dự án do các tổ chức quốc tế hỗ trợ (SELF, Quỹ Rockeffeler, tổ chức CASE của Australia, bang North Rhine Westphalia của Đức...).


Theo các số liệu khảo sát ban đầu, tiềm năng của năng lượng gió đo được tại các khu vực khác nhau của Việt Nam như sau: tại hải đảo là 860 - 1.410 kWh/m2/năm; khu vực duyên hải (Kỳ Anh, Cửa Tùng, Bình Định, Tuy Hòa, Cam Ranh, Vũng Tàu): 800 - 1.000 kWh/m2/năm; một số khu vực trong nội địa: 500 - 800 kWh/m2/năm.


Vừa qua đã có một trạm phát điện bằng năng lượng gió được xây dựng ở đảo Bạch Long Vĩ (từ nguồn ODA của Tây Ban Nha). Tại Bình Định hiện cũng đang tiến hành xây dựng một nhà máy điện chạy bằng sức gió. Dự kiến giai đoạn đầu của dự án sẽ hoàn thành vào cuối năm nay với công suất 15 MW. Giai đoạn hai của dự án sẽ nâng công suất lên 35 MW và giai đoạn ba là 50 MW. Đây được coi là dự án về điện chạy bằng sức gió lớn nhất tại Việt Nam hiện nay.


Như vậy có thể thấy năng lượng tái tạo ở Việt Nam thực sự có tiềm năng, tuy nhiên sự phát triển của lĩnh vực năng lượng tái tạo vẫn còn mang nặng tính tự phát, thiếu một quy hoạch tổng thể và chưa thực sự có vị trí tương xứng với tiềm năng của nó trong Chiến lược phát triển ngành điện.

Theo dự báo, thì đến năm 2050, tổng sản lượng điện gió toàn cầu sẽ tương đương với thủy điện và hiện nay Cộng đồng châu Âu cũng đã có kế hoạch nâng cao tỷ lệ năng lượng tái tạo lên 22% vào năm 2010. Trung Quốc hiện chiếm 50% tổng sản lượng thủy điện nhỏ của thế giới.


Ninh Kiều

27.5.05

Green Heat and Power

Report 3:1999
Green Heat and Power

Thomas Palm, Cato Buch, Bjørnar Kruse, Erik Sauar

Eco-effective Energy Solutions in the 21st Century

Published by Bellona Foundation 1999

Files you may download:
PDF: Green Heat and Power 648 kb
PDF: Green Heat and Power, chapter 1 and 2 330 kb
PDF: Green Heat and Power, chapter 3 and 4 126 kb
PDF: Green Heat and Power, chapter 5 to 7 226 kb

Contents

Contents


Green Heat and Power (Front page)

II Preface

III Summary

1 The Energy and Environment Challenge

2 Fossil fuels

3 Renewable energy

4. Energy efficiency on the mainland

5. Hydrogen and electricity in the transportation sector

6. From supplying raw material to providing technology

7. A total energy policy

8. References

a1 Gasturbines on the Norwegian shelf

a2 A closer look at fossil oil, well pressure, and produced water

a3 Fuel Cells: From fuel to electricity and clean water

a4 Index of organization names

Green heat and power